Liệu chúng ta có thể cứu vãn tầm nhìn về sự bình đẳng từ những tàn tích của chủ nghĩa phục quốc Do Thái cánh tả?
Peter E. Gordon, The New Republic, 6/4/2020
Karl Marx sinh ra cách đây hơn hai thế kỷ, vào năm 1818, và do tác động to lớn của các tư tưởng tưởng của ông, không có gì đáng ngạc nhiên khi chúng ta đang cố gắng hiểu ý nghĩa về cuộc đời và di sản của ông. Chỉ riêng trong tiếng Anh, ít nhất ba cuốn tiểu sử quan trọng đã xuất hiện kể từ đầu thiên niên kỷ này: ‘Karl Marx: A Life’ [Karl Marx: Một cuộc đời] của nhà báo người Anh Francis Wheen (2000), ‘Karl Marx: A Nineteenth-Century Life’ của nhà sử học Jonathan Sperber (2013 ) và ‘Karl Marx: Greatness and Illusion’ [Karl Marx: Sự vĩ đại vào ảo tưởng] của nhà sử học người Anh Gareth Stedman Jones (2016). Và sau đó là cuốn tiểu sử đồ sộ và đa diện: ‘Karl Marx and the Birth of Modern Society’ của nhà khoa học chính trị người Đức Michael Heinrich, trong đó mới chỉ có tập đầu tiên được dịch sang tiếng Anh, mới chỉ trong năm ngoái. Với một đề tài có đông người tham gia như vậy, ngay cả một người say mê Marx cũng có cớ để hỏi liệu có còn dư địa cho một cuốn tiểu sử khác không, và liệu cuốn tiểu sử mới này có thể đóng góp gì cho các cuộc tranh luận phức tạp xung quanh tác phẩm của ông.
Cuốn tiểu sử mới là của Shlomo Avineri, nhà khoa học chính trị người Israel đáng kính, tác giả của tác phẩm ‘The Social and Political Thought of Karl Marx’ Tư tưởng chính trị và xã hội của Karl Marx, xuất bản lần đầu năm 1968 và từ lâu đã trở thành tác phẩm kinh điển. Chừng mực trong các lập luận của mình, lại được viết trong bối cảnh của cuộc Chiến tranh lạnh, thời điểm mà đề tài về Marx hiếm khi tạo cảm hứng cho việc viết sách, cuốn sách này đã nêu ra điểm mấu chốt là Marx không bao giờ có ý định biến lý thuyết của mình thành các quy luật bất biến vô thời hạn; ông luôn biết thay đổi đề phù hợp với hoàn cảnh lịch sử – một tài năng tỏa sáng trong hầu hết tất các thư từ của ông với những người đương thời. Avineri cũng vậy, từng sống ở ngã tư đường của lịch sử: là người kiên định với chủ nghĩa phục quốc Do Thái, ông đã đóng vai trò quan trọng trong cả chính trị của Israel lẫn chính trị quốc tế. Vào những năm 1970, ông là Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Israel dưới thời Yitzhak Rabin và lãnh đạo phái đoàn Israel tham dự Đại hội đồng UNESCO. Ông đã liên tục viết các tác phẩm quan trọng về lịch sử tư tưởng chính trị, bao gồm một nghiên cứu về Hegel, và một tác phẩm khác về nhà triết học người Đức gốc Do Thái Moses Hess, một trong những người từng đối thoại với Marx.
Một nửa thế kỷ đã trôi qua kể từ khi cuốn sách đầu tiên xuất hiện, và trong quãng thời gian đó, chúng ta đã chứng kiến cả sự tan rã của Liên Xô, và sự xâm chiếm đất đai của người Palestine kể từ cuộc chiến năm 1967 (nếu không phải là từ trước cả thời điểm đó). Cả chủ nghĩa phục quốc Do Thái và chủ nghĩa Marx ban đầu đều là những phong trào không tưởng, được truyền cảm hứng từ sự khao khát về một tương lai không còn sự áp bức. Nhưng không chủ nghĩa nào sống sót mà không phải trải qua sự tổn thương đầy bi thảm. Đọc tác phẩm mới của Avineri là một trải nghiệm đầy u buồn, nhất là bởi vì nỗ lực cứu vãn một cái gì đó từ tàn tích của chủ nghĩa phục quốc Do Thái cánh tả, mà sự hồi sinh của chủ nghĩa này cũng giống như sự xuất hiện của vị thần cứu tinh. Tuy nhiên, chúng ta vẫn được phép tự hỏi làm thế nào Marx có thể đánh giá sự khuấy động của tình cảm dân tộc đã làm thay đổi lịch sử dân tộc Do Thái sau khi ông qua đời, và sự đề cập của Avineri đối với vấn đề phức tạp về bản sắc Do Thái của Marx đã làm cho tiểu sử mới của ông thực sự đặc biệt. Cuốn sách xuất hiện trong chuỗi ấn phẩm “Cuộc đời của các nhân vật Do Thái” từ Nhà xuất bản Đại học Yale, một dự án lớn tập hợp các chuyên khảo về danh nhân Do Thái, một số là anh hùng (Emma Goldman), một số là người truyền cảm hứng (Marcel Proust), một số người xuất hiện trong Kinh Thánh (Moses).
Marx hiếm khi muốn tự nhận mình là người Do Thái, ông cũng không thường viết với sự cảm thông về vận mệnh chung của người Do Thái. Điều ấn tượng hơn cả là sự xử lý đầy khéo léo của Avineri về vấn đề này, mà các nhà viết tiểu sử về Marx trước kia thường hiếm khi đề cập đến. Avineri quá tỉnh táo để cho phép bản thân suy đoán lãng mạn về “tính Do Thái” trong tư duy của Marx, cũng không làm biến dạng hồ sơ lịch sử để khiến nhân vật chính của mình phù hợp với khuôn mẫu đáng ngờ của một đời sống Do Thái. Cuốn tiểu sử của ông là một mô hình của sự kiềm chế, xen kẽ những câu chuyện khá quen thuộc về sự nghiệp Marx với những hiểu biết ngắn gọn nhưng sáng suốt về những thành tựu của Marx, với tư cách là một nhà lý luận xã hội. Suốt cuốn sách, ông đã đưa ra ánh sáng mới cho vấn đề gây tranh cãi về vị trí của Marx trong lịch sử của dân tộc Do Thái – một nhiệm vụ mà, tuy vậy, cũng có thể nhắc nhở chúng ta tại sao Marx cảm thấy bị ép buộc phải chối bỏ lịch sử đó. Rằng Marx từ chối việc mình bị quy định bởi bất kỳ bản sắc dân tộc nào có thể trở thành bài học sâu sắc nhất về cuộc đời ông.
Marx sinh năm 1818 tại Trier, một thị trấn trên bờ sông Rhine, vốn bị Vương quốc Phổ xâm chiếm sau Chiến tranh Napoléon. Cú tai nạn chính trị và địa lý này có thể giúp giải thích chàng tuổi trẻ Marx chuyển sang chủ nghĩa cấp tiến chính trị, nhất là bởi vì nó đánh dấu sự đảo ngược vận mệnh đối với người Đức gốc Do Thái dọc bờ sông Rhine, những người được hưởng lợi từ các nguyên tắc cai trị dựa trên nhân tài của Napoléon. Đây có lẽ là cội nguồn của sự hăng hái đấu tranh cho công lý phổ quát, và sự ghê tởm đối với đàn áp chính trị, mà Marx sẽ duy trì trong suốt cuộc đời của mình. Tổ tiên của ông, ở cả bên mẹ và bên cha, đã từng là giáo sĩ Do Thái; ông nội của ông, cũng là một giáo sĩ, xuất hiện trong một cuộc điều tra dân số năm 1801 với tên là Marx Lewy, trực tiếp nhưng ngay sau đó sự mơ hồ về ngôn ngữ và tài liệu đã đảo ngược thứ tự các tên. Khi cha của Marx, Heinrich, trúng tuyển vào Đại học Hoàng gia ở Coblenz vào năm 1813, ông được liệt kê vào danh sách là ‘Henry Marx, con trai của Marcus Samuel Levy’. Ông còn được biết đến với cái tên là “Heschel Lewy”, một cái tên đã được Đức hóa, và với cái tên đầu tiên của cha mình “Marcus”, sẽ trở thành tên của gia đình, Marx. Các mối nguy hiểm như vậy dành cho những cái họ tên Do Thái không phải là hiếm ở Trung Âu, đặc biệt là trong thời kỳ đấu tranh giải phóng người Do Thái, khi sự thừa nhận tư cách công dân cho người Do Thái thiểu số thường kèm theo điều kiện là sự chấp hành của nhóm thiểu số này đối với phong tục địa phương. Avineri đặt ra một câu hỏi gây tò mò: Nếu Karl Marx được sinh ra với cái tên Karl Levi, thì bây giờ chúng ta sẽ nói về chủ nghĩa Levism, chủ nghĩa hay học thuyết Liên Xô về chủ nghĩa Levi-Lenin? Những suy nghĩ lúc nhàn rỗi nhắc nhở chúng ta về nhiều sự kiện trong lịch sử phụ thuộc vào yếu tố ngẫu nhiên.
Việc Marx được sinh ra từ cha mẹ vẫn là người Do Thái và chưa cải đạo Cơ đốc giáo cũng là một tình huống ngẫu nhiên. Vào năm 1815, những người cai trị nước Phổ mới của vùng sông Rhine đã thu hồi các quyền mà người Do Thái ở đó được hưởng dưới thời Napoleon. Những người Do Thái ở vùng sông Rhine, những người đã hành nghề luật sư hoặc công chức giờ đây được thông báo rằng họ chỉ có thể tiếp tục công việc của mình nếu họ cải đạo sang Cơ đốc giáo. Heinrich đã thỉnh cầu nhà nước nhiều lần để được miễn yêu cầu này, nhưng không được, và cuối cùng ông phải cải đạo để tiếp tục làm việc. Cần lưu ý (mặc dù Avineri không đề cập đến sự thật) rằng Heinrich ít quan tâm đến đức tin của gia đình mình: Ông đặt niềm tin vào các nhà Khai sáng Pháp và thậm chí còn biết hát bài “Marseillaise”. Thời điểm cải đạo thực sự của Heinrich vẫn còn là một vấn đề tranh luận: Avineri cho rằng việc này xảy ra vào năm 1819, điều đó có nghĩa là cả Heinrich và vợ vẫn là người Do Thái theo nghĩa chính thức khi con trai Karl của họ chào đời. Bà Henriette Marx, mẹ của Karl, đã không cải đạo cho đến năm 1825, tại thời điểm đó bà cũng thấy rằng các con của mình, bao gồm cả Karl, đã được rửa tội.
Không có chi tiết nào trong số này nên được lấy làm bằng chứng cho thấy Karl Marx quan tâm sâu sắc đến di sản Do Thái của ông, giả sử như ông đã từng quan tâm. Avineri, với uy tín của mình, không đặt nặng vấn đề này, mặc dù người ta có thể tưởng tượng rằng đối với Marx, ký ức về sự phân biệt đối xử trong cộng đồng sẽ tăng cường sự phản đối của ông đối với nhà nước Phổ như là hiện thân của phản ứng chính trị. Có lẽ là có liên quan để lưu ý rằng Marx cho thấy mối quan tâm ít ỏi cho việc kết hôn trong nội bộ cộng đồng người Do Thái. Cha ông là bạn của Ludwig von Hampalen, một thành viên tự do của giới quý tộc Phổ, từng là một công chức ở thành phố Trier, và chàng trai trẻ Marx đã đính hôn và cuối cùng kết hôn với con gái của ông, Jenny von Hampalen, một người phụ nữ đầy trí tuệ, có chung niềm đam mê chính trị, và cùng ông nuôi ba cô con gái.
Mặc dù Marx đã theo học đại học ở Bon với ý định học luật, nhưng ông sớm chuyển đến Berlin, nơi ông bị lôi kéo vào “Doktoren-Klub”, một nhóm sinh viên đã kích thích sự nhiệt tình của ông đối với chủ nghĩa Hegel – trường phái triết học hàng đầu thời bấy giờ. Mặc dù bản thân Hegel đã qua đời vào năm 1831, nhưng các luận thuyết triết học của ông vẫn còn thịnh hành tại Đại học Berlin khi Marx bắt đầu nghiên cứu ở đó vào cuối những năm 1830. Ông đặc biệt quan tâm đến các bài giảng của một người sinh viên của Hegel, giáo sư Eduard Gans, môn đệ chính của chủ nghĩa Hegel ở Berlin, và cũng là người cải đạo từ Do Thái sang Cơ đốc giáo. Như Avineri lưu ý, Gans không thể bảo đảm được chức giáo sư của mình mà không thực hiện việc cải đạo này – điều này đã trở thành chủ đề gây tranh cãi giữa các trí thức Berlin. Nhà thơ Heinrich Heine thậm chí còn biến nó thành chủ đề của một bài thơ: “Ngươi đã bò về phía cây thập tự / Cùng một cây thập tự mà ngươi từng gièm pha … / Hôm qua ngươi còn là một anh hùng / Nhưng hôm nay ngươi chỉ là một kẻ vô lại”.
*
Khi nhìn Marx qua lăng kính lịch sử Do Thái, thật tự nhiên là Avineri sẽ dành trọn một chương cho bài tiểu luận năm 1843, “Về vấn đề người Do Thái”, mà nhiều nhà phê bình đã lên án là [mang tinh thần] bài Do Thái. Avineri giải quyết chủ đề này một cách thận trọng; ông thận trọng giải thích rằng Marx thực sự bảo vệ quyền của người Do Thái khi tham gia đầy đủ như những công dân bình đẳng bên cạnh các Kitô hữu, một lập trường mang tính nguyên tắc để phân biệt giữa Marx với đồng nghiệp Bauer, người đưa ra yêu cầu khá kỳ lạ rằng người Do Thái trước tiên nên chuyển đổi sang Cơ đốc giáo. rằng nhà nước hiện đại là hoàn toàn mang tính thế tục. Marx đã đi xa đến mức nói rằng câu hỏi liệu người Do Thái có được công nhận hoàn toàn như những công dân bình đẳng có thể trở thành tiêu chuẩn để đánh giá tính duy lý của một chính thể hiện đại hay không. “Các nhà nước không thể giải phóng người Do Thái về mặt chính trị phải bị phán xét là đang chống lại các nhà nước chính trị phát triển đầy đủ”.
Nhưng quan điểm nhân đạo này về quyền của người Do Thái trong nhà nước hiện đại đã không ngăn cản Marx sử dụng những lời lẽ phỉ báng phổ biến chống lại Do Thái giáo như một thứ đồng nghĩa với chủ nghĩa tư bản: “Giáo phái thế tục của người Do Thái là gì? Sự ôm ấp. Thiên Chúa thế tục của hắn ta là gì? Tiền bạc.” Avineri lưu ý rằng những người đương thời của Marx hẳn đã quen thuộc với ngôn ngữ như vậy, vì trong tiếng Đức, từ ‘Judentum’ có nghĩa thông tục là thương mại. Bằng cách khẳng định rằng xã hội hiện đại nên được giải phóng khỏi “đạo Do Thái”, Marx chủ yếu muốn nhấn mạnh rằng xã hội hiện đại cần được giải phóng khỏi sự hủy hoại của hệ thống tư bản. Avineri suy đoán rằng Marx có thể đã viết theo cách tự kiểm duyệt để thoát khỏi lưỡi kéo của những người kiểm duyệt, nhưng ông đề cập đến một điều trớ trêu nữa: Phương trình giữa Do Thái giáo và tài chính cũng đã xuất hiện trong một bài tiểu luận “Về tiền bạc” mà Marx đã đọc chỉ một năm trước đó. Tác giả của nó là nhà văn người Do Thái gốc Đức Moses Hess, người đã tiếp tục trở thành người tiên phong của chủ nghĩa phục quốc Do Thái hiện đại.
Chủ đề về chủ nghĩa dân tộc Do Thái đặt ra những khó khăn nhất định cho Avineri, vì ông rất muốn thấy một mối ràng buộc giữa chủ nghĩa Mác và các cam kết của chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa phục quốc Do Thái của những người theo chủ nghĩa xã hội. Điều này có thể giải thích tại sao ông nhấn mạnh nhận thức ngày càng tăng của Marx rằng chủ nghĩa dân tộc có thể là một thứ gì đó còn hơn cả sự thờ ơ đối với lịch sử, và các phong trào thống nhất dân tộc ở Ý và Đức có thể đóng một vai trò tiến bộ trong lịch sử, nếu các phong trào này chỉ là giai đoạn chuẩn bị trên con đường tiến tới cách mạng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, vì lý do tương tự, Marx đã xem xét yêu cầu độc lập giữa các quốc gia nhỏ hơn như Séc hay các tiểu quốc vùng Balkan, vì ông cảm thấy những phong trào như vậy sẽ chỉ kìm hãm sự phát triển tình đoàn kết quốc tế thực sự giữa các giai cấp công nhân.
Câu hỏi sâu sắc hơn là liệu Marx có thể thừa nhận rằng chủ nghĩa dân tộc có bất kỳ tính hợp pháp lâu dài nào không. Ở đây câu trả lời dường như là hiển nhiên. Từ góc độ lý thuyết, chủ nghĩa Mác phải đánh giá rằng tất cả sự gắn bó với tính đặc thù quốc gia là tạm thời, một triệu chứng của của chủ nghĩa bộ lạc và tính truyền thống mà cuối cùng chúng ta phải đặt sang một bên. Chủ nghĩa Marx lướt qua bất kỳ tình cảm dân tộc nào và nhanh chóng chú ý đến các điều kiện vật chất mà chúng ta chia sẻ như một loài. Marx và Engels viết: “Giai cấp vô sản của mỗi quốc gia trước hết phải giải quyết vấn đề tư sản của nó”. Nhưng loại chủ nghĩa dân tộc này có thể không khác gì một sân khấu, bởi vì “những người vô sản không có quê hương”.
*
Tiêu chí này phân biệt Marx là một nhà tư tưởng phổ quát thực sự, người chống lại các loại nhận dạng về bản sắc đầy lãng mạn, vốn đã truyền cảm hứng cho các nhà văn khác của thế kỷ XIX. Chủ nghĩa phổ quát mang tính nguyên tắc của Marx sau này sẽ biến ông thành một nguồn cảm hứng đối với các nhà triết học đa nguyên tự do như Isaih Berlin, người coi sự đa dạng văn hóa của con người là tốt cho chính mình và thấy việc tìm kiếm một tiêu chuẩn tự do duy nhất và cao hơn của con người sẽ mở ra cánh cửa cho chế độ toàn trị. Trường hợp một người đi xuống trong cuộc tranh luận này sẽ xác định cách anh ta đánh giá nỗ lực tranh thủ chủ nghĩa Mác như là một công cụ cho các phong trào giải phóng dân tộc. Nhưng dường như rõ ràng là bản thân Marx chỉ có thể duy trì sự cảm thông kèm theo những điều kiện nhất định đối với những khác biệt về văn hóa và dân tộc, mà theo quan điểm của ông, là chỉ có tác dụng ngăn chúng ta nhận ra điểm chung của chúng ta như những con người. Chủ nghĩa cộng sản là một phương thuốc phổ quát cho một vấn đề phổ quát: Đó là câu đố của lịch sử đã được giải quyết. Chủ nghĩa phổ quát này cũng là một nguyên tắc mà Marx đã thừa hưởng từ Hegel, mặc dù ông đã chuyển nó từ thế giới tinh thần sang đời sống vật chất.
Avineri thuật lại câu chuyện về những năm cuối đời của Marx bằng sự ngắn gọn và sắc sảo, mặc dù ông tránh được một sự khảo sát chi tiết về bộ ‘Tư bản’, bỏ qua các chủ đề như ‘sự hình thành của tư bản’ và vấn đề bóc lột, vốn được cho là những khám phá quan trọng trong tập I của bộ ‘Tư bản’. Thay vào đó, chúng ta được nghe kể về những câu chuyện sống động, miêu tả Marx như một nhà phê bình thế giới, phản ứng của Marx với bi kịch của Công xã Paris năm 1871, và tham gia vào các cuộc tranh luận khó chịu với Mikhail Bakunin, người đã dùng đến lời vu khống mang tính bài Do Thái, để cáo buộc Marx thông đồng với Disraeli và Rothschild trong một âm mưu quốc tế. Marx đã suy sụp sức khỏe từ lâu, và trong những năm tháng suy tàn, ông thường lui tới các suối nước nóng trên lục địa, cùng với cô con gái Eleanor. Trong một chuyến đi như vậy ở Carlsbad tại Bohemia, ông đã gặp Heinrich Graetz, nhà sử học vĩ đại người Do Thái, và hai người đã kết bạn, hẹn gặp lại nhau.
Avineri bị lôi cuốn vào những chi tiết như vậy có lẽ bởi vì chúng sẽ làm sáng tỏ một thực tế Marx là một nhà tư tưởng sống bên lề lịch sử Do Thái, ngay cả khi bản thân ông không phải là một nhà tư tưởng Do Thái. Marx qua đời vào tháng 3 năm 1883, và không kịp chứng kiến sự hưng thịnh của phong trào cộng sản vốn đã áp dụng các nguyên lý của ông làm luận thuyết chính thống. Avineri không tập trung vào hậu quả này, nhưng ông đề cập đến một chi tiết cảm động về cô con gái Marxor Eleanor. Là một cư dân của thành phố London, cô đã dịch các tác phẩm của Flaubert và Ibsen, và cả cuốn tiểu sử do Eduard Bernstein viết về Ferardand Lassalle, lãnh tụ của Hiệp hội Công nhân Đức. Bà cũng đã viết một nghiên cứu về tầng lớp lao động Hoa Kỳ, và một tác phẩm ủng hộ nữ quyền, “Vấn đề phụ nữ”. Bà cũng đã học tiếng Yiddish [ngôn ngữ của người Do Thái ở vùng Trung Âu, và trong một bài phát biểu trước những người tị nạn Do Thái ở khu East End, bà đã nói chuyện với họ bằng ngôn ngữ mẹ đẻ của họ: “Tôi là một trong số các bạn”.
*
Cuốn sách của Avineri không chắc sẽ mang đến ánh sáng mới nào cho sự hiểu biết của chúng ta về di sản của Marx. Trong cuốn sách này, Avineri, thông qua những lựa chọn tinh tế về sự nhấn mạnh và chi tiết, đã định hình lại hình ảnh của Marx theo cách gợi ý một mối quan hệ tinh thần giữa chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa phục quốc Do Thái. Tất nhiên, không phải tất cả những người xã hội chủ nghĩa theo chủ nghĩa phục quốc Do Thái đều là những người Mác-xít, và hầu hết những nhà Mác-xít đều thù địch với chủ nghĩa phục quốc Do Thái. Nhưng quan hệ khăng khít giữa hai chủ nghĩa này đã từng là một thực tế. Sự kết hợp lịch sử của hai phong trào này trong thế kỷ XIX đã giúp truyền cảm hứng cho một trong những dự án không tưởng nhất của thời kỳ hiện đại, một chiến dịch tái định cư tập hợp những người nhập cư và người tị nạn từ khắp châu Âu và Trung Đông đến một vùng đất thuộc Đế chế Ottoman, nơi mà tàn dư của người Do Thái nghèo khó đã sống qua nhiều thế kỷ trong tình trạng lộn xộn. Chủ nghĩa phục quốc Do Thái của các nhà xã hội nghĩa, kết hợp với các biến thể khác của chủ nghĩa phục quốc Do Thái, một số trên bình diện văn hóa, một số khác nghiêng bình diện ‘chính-trị-trên-thực-tiễn’, đã giúp thế tục hóa khát vọng mang tính tiên tri đó và tạo cho nó nó một hình hài chính trị.
Trong phần kết cuốn sách của mình, Avineri lưu ý đến một sự thật gây tò mò, rằng trong một bản báo cáo viết năm 1854 cho tờ New York Tribune, Marx miêu tả hậu duệ của người Do Thái ở Jerusalem với những thảm họa kinh khủng. Marx viết: “Không có gì” sánh được với “sự khốn đốn và đau khổ” của của nhóm thiểu số bị đàn áp này, những người sống nhờ vào “những khoản bố thí ít ỏi từ những người anh em châu Âu của họ” và bị kéo đến Vùng Đất Thánh chỉ vì họ muốn “được chết ở ngay chính nơi mà sự chuộc tội được chấp thuận”. Marx cũng quan sát thấy rằng, trong tổng số 15.500 linh hồn khốn khổ của vùng Jerusalem, có tới “4.000 tín đồ Hồi giáo và 8.000 người Do Thái”. Avineri gán cho thực tế này một tầm quan trọng đặc biệt, vì nó cho thấy rằng ngay cả dưới thời Ottoman, “người Do Thái cũng chiếm đa số”.
Nhưng bản thân Marx khó có thể đồng ý rằng những thống kê như vậy sẽ đóng vai trò là sự bảo đảm cho sự thống trị quốc gia dựa trên chủng tộc mang tính vĩnh cửu. Ông đã dứt khoát từ chối đối với mọi khát khao cứu chuộc quốc gia. Phong cách của chủ nghĩa dân tộc mà ông từng chứng kiến, vốn từng là một lực lượng tiến bộ trong lịch sử, giờ đã mất hết uy tín, và ở Israel ngày nay, mối liên kết cũ giữa chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa Zion dường như bị phá vỡ. B’Tselem, tổ chức nhân quyền của Israel, gần đây đã đưa ra một tuyên bố rằng cái gọi là kế hoạch hòa bình của chính quyền Trump sẽ có lợi cho Israel bởi “hành vi bất hợp pháp và vô đạo đức mà nó đã tham gia kể từ khi chiếm được vùng Lãnh thổ”. Kế hoạch này “đã vĩnh viễn hóa sự phân chia không gian của người Palestine thành các mảnh lãnh thổ rời rạc trong một vùng do Israel kiểm soát, không khác gì vùng Bantustan dưới chế độ diệt chủng tại Nam Phi”.
Những hậu quả như vậy hầu như không cần phải ngạc nhiên. Chủ nghĩa phục quốc Do Thái ngay từ đầu đã trở thành một cuộc đánh cược cho điều không thể xảy ra, và nó bắt nguồn từ một kiểu chủ nghĩa dân tộc hiếu chiến khác vốn có thể đã được dự đoán từ lâu. Cuối cùng, chủ nghĩa dân tộc được sinh ra từ sự chia rẽ, và mọi sự giải phóng cho một dân tộc có nghĩa là loại trừ dân tộc khác. Trong một thế giới đa nguyên, bi kịch này chỉ có thể tránh được bằng cách đòi hỏi quyết liệt quyền công dân phải được áp dụng vượt lên tất cả các khác biệt về bản sắc dân tộc. Tất nhiên, chủ nghĩa Marx cũng thường thất bại trong phiên bản tư tưởng nguyên thủy của chính nó, và những người bảo vệ nó phải tiếp tục xem xét đến những hệ quả đáng xấu hổ mà nó đã gây ra. Tuy nhiên, không giống như chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa Marx có thể vẫn tồn tại trong những biến thể trong quá khứ của nó, vì nó duy trì tầm nhìn về một miền đất hứa mà không ai phải bị bỏ lại phía sau. Đây có thể cũng là lời hứa mà các vị giáo chủ xưa kia đã từng có trong tâm trí của họ.
Lược dịch: Nguyễn Trung Kiên