Mô tả sách Thi ca tư tưởng
Thi ca tư tưởng – Bùi Giáng. Thi sĩ sống không nhà cửa, không vợ con, không tài sản, không sự nghiệp, không danh lợi, không là gì cả ngoài một bầu rượu túi thơ và một bộ quần áo xốc xếch cũ mèm, rách nát tả tơi, trông giống như một Tế Điên, một Hàn San, Thập Đắc, một gã ăn mày quái dị lạ lùng. Thế mà sức sáng tạo, sáng tác quá đỗi rạt rào như thác đổ trào tuôn, thật là vô tiền khoáng hậu. Nhà thơ viết như thần nhập, như nhảy tung vào cõi mật ngôn ẩn ngữ, làm khơi mở mối giềng xiết bao rực cháy, gây nên một nguồn cảm hứng tưng bừng, dậy sóng phiêu bồng cho biết bao kẻ đồng điệu, đồng cảm vút hồn bay chuếnh choáng, ngất ngây trong cơn say sưa túy lúy.
Thi sĩ khơi vơi ngồi nhớ quê như thế. Quê hương cố xứ bên dòng sông Thu Bồn ở Duy Xuyên Quảng Nam. Về sở học của nhà thơ, quả thật là thông đạt quảng bác vô cùng, làu thông nhiều ngôn ngữ như Anh, Pháp, Đức, Hán. Không biết thi nhân tự học từ lúc nào mà trở thành một bậc thượng trí, hầu như vô sư tự ngộ, chỉ do đọc sách mà phát minh tâm địa như trường hợp thiền sư Huyền Giác đọc kinh Duy Ma Cật mà hoát nhiên triệt ngộ chân lý diệu thường. Từ đó, trọn suốt cuộc đời thi sĩ cứ phiêu nhiên trên con đường thênh thang sáng tạo, bước đi thi ca tỏa rợp trời thơ đất mộng bồng bềnh, bát ngát phiêu diêu.
Nhiều người cho rằng Bùi Giáng là một gã cuồng sĩ điên rồ hay một đại thi hào, một Bồ tát nghệ sĩ gì gì đó cũng được, chỉ là những danh từ, khái niệm mà thôi. Điều cần thiết phải làm là chúng ta hãy đi vào bên trong tâm hồn phong phú, thể hiện qua tác phẩm, may ra có khám phá được điều gì mới mẻ trong cõi tư tưởng của nhà thơ tài hoa này hay không ?
Đôi nét về tác giả
Bùi Giáng (1926-1998), người làng Thanh Châu thuộc xã Vĩnh Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam.
Năm 1933, ông bắt đầu đi học tại trường làng Thanh Châu.
Năm 1936, ông học trường Bảo An (Điện Bàn) với thầy Lê Trí Viễn.
Năm 1939, ông ra Huế học tư tại Trường trung học Thuận Hóa. Trong số thầy dạy ông có Cao Xuân Huy, Hoài Thanh, Đào Duy Anh.
Tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp, nhưng sau đó ông cũng kịp đậu bằng Thành chung.
Năm 1949, ông tham gia kháng chiến chống Pháp, làm bộ đội Công binh.
Năm 1950, ông thi đỗ tú tài đặc biệt do Liên khu V tổ chức, được cử tới Hà Tĩnh để tiếp tục học. Từ Quảng Nam phải đi bộ theo đường núi hơn một tháng rưỡi, nhưng khi đến nơi, thì ông quyết định bỏ học để quay ngược trở về quê, để đi chăn bò trên vùng rừng núi Trung Phước.
Năm 1952, ông trở ra Huế thi tú tài 2 ban Văn chương. Thi đỗ, ông vào Sài Gòn ghi danh học Đại học Văn khoa. Tuy nhiên, theo T. Khuê thì sau khi nhìn danh sách các giáo sư giảng dạy , ông quyết định chấm dứt việc học và bắt đầu viết khảo luận, sáng tác, dịch thuật và đi dạy học tại các trường tư thục .
Năm 1965, nhà ông bị cháy làm mất nhiều bản thảo của ông.
Năm 1969, ông “bắt đầu điên rực rỡ” (chữ của Bùi Giáng). Sau đó, ông “lang thang du hành Lục tỉnh” (chữ của Bui Giáng), trong đó có Long Xuyên, Châu Đốc…
Năm 1971, ông trở lại sống ở Sài Gòn.
Cập nhật tin tức mới nhất tại Fanpage: Thư Hiên Dịch Trường
Nguyễn Hoàng Long (xác minh chủ tài khoản) –
Từ ngữ gần gũi, ví dụ chân thật