Nhân dịp lễ Thích Ca thành đạo và Jesus giáng sinh vào cuối năm, chúng ta hãy tìm đọc kinh Phật và Chúa để chiêm nghiệm lại một vài ý nghĩa tôn giáo. Có những mẫu chuyện mà có lẽ nhiều người trong chúng ta đã nghe và đọc qua. Nhưng câu chuyện ẩn dụ vẫn còn dấu kín.
Sau đây là hai câu chuyện của Ananda và Peter (Phê-Rô) – đôi cột trụ lớn của hai truyền thống Đạo lý trọng yếu của nhân loại. Ananda là của Đông phương; Peter là Tây phương. Mỗi nhân vật là một hiện thân từ chữ Đạo, tuỳ duyên mà ứng hiện trong sự lớn lao vô cùng huyền diệu về hiện tượng con người.
Bài viết của Ts. Nguyễn Hữu Liêm
Khi Ananda vấp ngã thân xác
Trong Surangama Sutra, tức kinh Lăng Nghiêm, có thuật lại câu chuyện của Ananda. Ananda là một trong những đại đệ tử hàng đầu của Phật Thích Ca Mâu Ni. Hôm ấy là ngày giỗ tổ, Ananda đi khất thực một mình. Ông gặp một nàng thiếu phụ xinh đẹp và khiêu gợi tên là Matanga. Nàng ta dùng thần chú Ấn giáo để khích dụ ông vào phòng ngủ của mình. Dù là một đệ tử cao cấp của Phật, nhưng công phu tu tập chưa đến hạng siêu thừa, vốn thêm là một bậc trí giả thiên về lý luận, phiên giải, Ananda suýt nữa vấp ngã. May nhờ lúc đó, Phật đã phải dùng thần chú Lăng Nghiêm để thức tỉnh Ananda, kêu gọi ông và nàng Matanga trở về diện kiến Phật. Gặp Phật, Ananda cảm thấy xấu hổ, khóc lóc. Ông quỳ xuống đảnh lễ đức Phật, tự giận mình là người học rộng, nghe nhiều mà đạo lực vẫn chưa toàn. Trước mặt nhiều môn đồ và đệ tử khác, Phật an ủi Ananda, xong rồi truy hỏi ông về “dâm ái,” “vọng tưởng” và “chân tâm”.
Kinh Lăng Nghiêm và Lăng Già – Công lao của Ananda
Kinh Lăng Nghiêm là bộ kinh ghi chép những gì mà Ananda nhớ lại từ những câu tra vấn và thuyết giảng của Phật cho mình và thánh chúng nhân dịp pháp thoại này. Lăng Nghiêm là một đại phẩm tước cơ bản về siêu hình học Phật giáo. Nó đứng song song với Lankavatara – kinh Lăng Già – một tác phẩm tri thức luận. Hai tập kinh này được biên tập là nhờ công của Ananda. Với một trí nhớ phi thường, Ananda đã nhớ rõ hầu hết các bài giảng của Phật. Hai trăm năm sau khi Phật lìa trần, trí nhớ và sự kể lại của Ananda đã được ghi chép thành kinh văn trong những đại hội “kiết tập.” Vì thế, nếu như không có Ananda thì gia tài kinh điển Phật giáo sẽ không được dồi dào, phong phú như vậy.
Ananda đắc đạo ra sao
Tuy nhiên, trên cơ sở tu học thì Ananda là người đắc đạo chậm nhất. Có hai thứ làm cản trở con đường chứng đạo cho Ananda. Thứ nhất, khả năng trí thức siêu việt của ông; và thứ hai, năng lực dục tình vốn chưa hoàn toàn được chuyển hóa. Ananda được xem như đứa em út trong hàng đệ tử của Phật hồi ấy. Ngài đã tỏ ra thân ái và thương yêu Ananda rất nhiều cũng chỉ vì ông là người kém chậm nhất trên đường tu chứng. Nhưng Phật cũng biết rằng chính Ananda sẽ là nhân vật phát huy chánh Pháp hiệu năng hàng đầu. Và như lịch sử đã chứng minh, Ananda đã là viên đá trọng yếu và là chìa khóa cho sinh lực đạo Phật – mà nếu không có, Á Đông không thể như đã là.
Biểu tượng Ananda
Ananda là biểu tượng của thân xác và tri thức trên con đường giác ngộ chân Tâm. Trong tinh yếu của tu học, Phật pháp không thể hiển dương nếu không phải khởi đi, và đối đầu với, để vượt qua hai năng lực lớn lao của cá thể. Đó là hai vế trí thức và ái dục giới tính. Cả hai đều là hiện thân của tự-ngã. Một bên là ý chí thâu gom thế gian qua “cái biết” của mình; đằng kia là bản năng tồn hữu qua cơ năng thân xác. Khi Ananda sắp bị nàng Matanga dụ dỗ, chàng suýt nữa là rơi vào năng lực xác thân. Đây là một khổ nạn mà truyền thống tu học nhà Phật gọi là “nạn Ma Đăng Già.” Sự “ngã ngựa” của Ananda là một thời quán thiết yếu trên con đường đi đến giác ngộ. Bởi vì chính từ bản thể của sinh hiện, mỗi cá nhân tự mình là một sự chối từ, một vọng tưởng trong chân Tâm, để mang trong tim một gánh nặng chủ quan lạc giòng.
Và Peter chối từ
Bây giờ, chúng ta hãy đi sang kinh Tân Ước. Trong chương Matthew 26-27, đoạn kể về Peter, một môn đệ (apostle) hàng đầu của Chúa Jesus. Trước đêm bị bắt và đóng đinh trên thâp tự giá, Chúa Jesus đã cùng dùng bữa tối với 12 môn đồ. Ngài làm phép thánh bằng bánh mì và rượu xong rồi đưa cho các đệ tử mà nói, “Hãy lấy bánh này mà ăn vì nó là thân xác của ta; hãy uống từ cốc này vì đây là máu của ta.” Và Chúa tuyên bố rằng đêm hôm ấy, các đệ tử có mặt sẽ mất đức tin trước mặt Ngài. Peter trả lời rằng ông không phải là người như thế. Chúa nhìn Peter mà nói, “Ta nói cho ngươi nghe, trước khi gà gáy sáng mai, nhà ngươi sẽ từ chối ta ba lần.” Và đúng như vậy. Đêm hôm ấy sau khi Chúa đã nhắn nhủ Peter rằng, “Tinh thần thì cao, nhưng thân xác vốn là yếu,” Peter đã chối bỏ Chúa Jesus đúng ba lần trước những kẻ đang truy bức Ngài. Vừa khi Peter chối Chúa lần thứ ba, là lần cuối cùng, thì tiếng gà gáy sáng vang lên. Peter nhận thức ra lỗi lầm của mình và – như Ananda đã – bật khóc nức nở.
Và cũng như Ananda, sau khi Chúa Jesus chịu chết, Peter là người đã nắm “chìa khóa của giọt máu” từ Chúa (máu là tinh thần). Peter, một thiên tài về tổ chức, là “viên đá linh hiển” để cùng với môn đồ Paul (Phao Lô), một lý thuyết gia, xây dựng lên giáo hội Thiên Chúa. Không có Peter thì không có giáo hội La Mã như gần hai ngàn năm qua. Từ một kẻ đã phủ nhận Chúa, Peter đã trở nên một nhân vật hàng đầu cho sự thành hình và phát huy đạo Chúa. Kẻ chối từ nay đã trở nên kẻ minh định. Nói như Hegel, “Đánh mất chính mình để tìm ra chính mình là con đường Tinh thần.”
Tinh thần xác định: Thể xác phủ định
Cả Peter và Ananda đều là hiện thân từ thể xác; trong khi Chúa Jesus và Phật Thích Ca là Tinh thần. Cả hai đệ tử hàng đầu này là những người đã ngã ngựa trước Phật và Chúa – nhưng lại đứng lên được. Và đây là bài học trong câu chuyện: Trong cơ sự làm người, ý chí vực dậy sau khi ngã xuống chính là chìa khóa cho sự chuyển hóa từ thân xác sang Tinh thần. Không ai đã làm người mà không có lúc bị té ngã. Điều quyết định là ở chỗ hắn ta có ý chí đứng dậy làm lại cuộc đời hay không. Như Nietzsche nói: “What does not kill me only makes me stronger”, cái gì không giết chết ta thì chỉ làm cho ta mạnh thêm mà thôi!
Trong lịch sử của hai tôn giáo Chúa và Phật, còn có hai nhân vật khác, Nagarjuna (Long Thọ) và Augustine (Âu Tinh). Tuổi trẻ của hai nhân vật này cũng mang đầy dục vọng. Sau khi đã trải nghiệm tuổi trẻ qua đời sống thân xác, từ biến cố tử sinh, hai người đã ý thức về Đạo để chuyển hóa chính mình thành bậc thánh. Ý nghĩa? Không ai có thể đến với cõi Tinh thần nếu mà thân xác, tức là năng lực dục vọng, đã không một lần từ chối Tinh thần. Nhưng cuối cùng năng lực thân xác sẽ phải “chết” đi, tức là được chuyển hóa, để cho Tinh thần được sống lại. Đó là tinh hoa trong câu chuyện Chúa Jesus bị đóng đinh trên thập tự giá, chết đi, rồi phục sinh trong sự sống vĩnh hằng. Bạn có thể xem thêm Triết học về tôn giáo.
Thân xác sẽ chối từ ý chí cứu cánh cá nhân. Và không như Peter, thân xác sẽ phủ nhận Tinh thần, không những chỉ có ba lần trong suốt cuộc đời, mà là ba lần trong một ngày. Cho đến khi “gà gáy” báo hiệu bình minh đến, thì thân xác mới tỉnh thức mà đứng dậy – như Peter đã. Cũng như thế, Ananda đã vùng dậy chạy thoát ra khỏi bàn tay vuốt ve của nàng Matanga nhờ linh lực thần chú Lăng Nghiêm, tức “cứu cánh kiên tâm,” của Phật.
Thân thể con người, khi đứng thẳng dang hai tay, là biểu tượng cho Thánh giá. Chiều thẳng đứng là Tinh thần; chiều ngang là thân xác. Khi dục vọng thân thể gặp năng lực Tinh thần thì thân xác phải hy sinh cho Tinh thần có sự sống đời đời.
Sau này trên con đường truyền giáo, trong hai lá thư gởi cho các tín hữu, Peter đã nhắn nhủ, “Hãy đi tới để mà chính mình được dựng nên. Hãy là những viên đá sinh hữu nhằm xây nên ngôi đền Tinh thần linh thiêng,” Peter nhấn mạnh, “Hãy bổ sung đức tin bằng tiết hạnh, tiết hạnh với kiến thức, kiến thức bằng tự chế, tự chế với quyết tâm, quyết tâm với lòng thành, lòng thành trong tương ái, và tương ái với tình yêu.”
Và đức Phật, trong phần giảng pháp gần giữa kinh Lăng Nghiêm, đã cảnh cáo Ananda rằng, “Ananda, nếu ông không nỗ lực tu hành – vốn trải nhiều kiếp – thì Bồ Đề, Niết Bàn đối với ông hãy còn xa vời lắm. Dầu ông có học nhiều, nhớ kỹ nghĩa lý nhiệm mầu suốt mười hai bộ kinh, thì cũng chỉ giúp ông phương diện hý luận, chứ không giúp gì cho sự giải thoát của mình.”
Ananda và Peter: Khi nhân loại được trùng tu
Từ Ananda và Peter là một bài học biểu dụ bằng hai cuộc đời. Thân xác và tri thức cả hai vốn là cần thiết, nhưng chưa đủ. Hãy suy rộng ra. Khi ở vào thời điểm mà con người chỉ còn biết vào thân xác và tri thức, để rồi bỏ quên năng lực Tinh thần, thì đó là một nền văn minh bị lạc lõng và không định hướng. Dựa ý theo một mệnh đề của Kant thì, “Tinh thần mà không có thân xác và tri thức là mù quáng; thân xác và tri thức mà thiếu vắng Tinh thần đều là trống rỗng.”
Nếu ai có mắt biết nhìn, tai biết nghe, đều phải nhận ra rằng khối nhân loại ngày nay đang bỏ quên giá trị Tinh thần để mà tôn vinh thân xác và tri thức. Trên bàn thờ cao nhất trong ngôi nhà sinh hữu có hai vị thần đế đang ngồi chễm chệ. Bên trái là thân xác, vốn chỉ biết phủ nhận; bên phải là tri thức, vốn chỉ mang kiêu hãnh. Ít ai biết đến rằng Tinh thần đang bị nhốt trong chiếc hòm đậy kín nằm sau lưng bức liễn chói lọi. Và sẽ có một ngày, rất gần, chủ nhà sẽ nhớ lại, qua tiếng gà gáy báo hiệu bình minh, hay là bằng thần chú Lăng Nghiêm huyền diệu, để mà lên tiếng kêu cho Tinh thần đội hòm sống dậy.
Đó là thời quán khi mà hai thể loại con người Đông và Tây, của Ananda và Peter, sẽ hóa nhập thành một xác thân để uống chia cùng một giọt máu Tinh thần mới. Đây sẽ chính là lúc nhân loại được trùng tu.
Nguyễn Hữu Liêm là tiến sĩ Luật khoa, tiến sĩ Triết học (Hoa Kỳ), nguyên giáo sư chủ nhiệm khoa triết ở San José City College, California. Ông là tác giả của nhiều tác phẩm về luật và triết học, trong đó có Phác thảo về một triết học cho lịch sử thế giới đang được bán tại Thư Hiên Dịch Trường. Hiện ông là chủ nhiệm tạp chí Triết: Tập san Triết học và tư tưởng.