Bạn có đam mê và muốn tìm hiểu trong lĩnh vực triết học nhưng không biêt phải bắt đầu từ đâu và không biết chọn sách gì để đọc. Trong bài viết dưới đây Thư Hiên Dịch Trường sẽ giới thiệu tới các độc giả những cuốn sách triết học hay mà bạn không nên bỏ lỡ.
1. Triết Luận Đông Tây
Triết Luận Đông Tây một cuốn sách triết học hay của tác giả Dương Ngọc Dũng mà đọc giả không nên bỏ lỡ. Trong cuốn sách tác giả Dương Ngọc Dũng có nói: Lý luận triết học chính là di chuyển thận trọng thông qua tư duy lý tính giữa những khẳng định cực đoan tuyên bố đã bóc trần chân dung thực tại. Chính trong lúc di chuyển như thế triết gia nhận ra tính hữu hạn căn bản trong tri thức nhân loại: tri thức tuyệt đối là một giấc mộng xa vời và nguy hiểm, vì nó loại trừ khả năng hoài nghi và tra vấn, dễ dẫn đến thái độ độc đoán, cực quyền, nhưng chủ nghĩa tương đối, bất chấp những ưu điểm mang tính khoan dung của nó, cũng có nguy cơ đẩy con người vào sự u mê, thụ động, chấp nhận tất cả những gì đang có sẵn, đang tồn tại, vì đã từ khước ngay từ đầu cuộc hành trình đi tìm chân lý, và như thế đánh mất cả tiềm năng chuyển hóa và làm mới thực tại”.
“Nếu định nghĩa triết học là những hệ thống tư duy có ngành ngọn, có truyền thống, nối tiếp nhau tranh luận vể một số chủ đề nào đó nhất định (duy tâm, duy vật, vũ trụ luận, siêu hình học, bản thể luận, lôgíc học, v.v.) mà chúng ta chứng kiến ở thế giới phương Tây như triết học Hy Lạp, triết học Kinh viện thời Trung cổ, triết học Phục Hưng, triết học Khai Sáng, cho đến triết học hiện đại, hậu hiện đại… thì quả tình là Việt Nam không có, không có tí ti gì cả. “Tuy truyền thống văn hóa Việt Nam không sở hữu một hệ thống tư duy triết học theo nghĩa philosophia của Hi Lạp và Lê Quý Đôn hay Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, không hề suy nghĩ theo phong cách của Platon, Aristote, Kant, hay Hegel, nhưng chắc chắn Việt Nam, giống như bất kì quốc gia nào khác, cũng có truyền thống tư tưởng, được xác định thông qua các phương tiện hết sức đa dạng như văn học, thi ca, ca dao, tục ngữ, các định chế xã hội, pháp lý, và nhất là tôn giáo (Khổng, Lão, Phật)”.
Tham khảo sách tại đây
2. Phác thảo về triết học cho lịch sử thế giới
Phác thảo về một triết học cho lịch sử thế giới của Giáo Sư Triết gia Nguyễn Hữu Liêm là một quyển sách “Triết Luận.” Quyển sách này chủ yếu sử dụng hai loại ngôn từ: ngôn ngữ triết học và chữ nghĩa trí thức, đòi hỏi một trình độ tương hợp, và là loại sách đọc để nghiền ngẫm. Những ngôn từ ẩn dụ trừu tượng bên cạnh chữ nghĩa giáo khoa chuyên môn dùng diễn tả những sự kiện phức tạp, có những tầm vóc lịch sử, nhân văn, đạo lý chen kẽ, cần phải hết sức tập trung để hiểu điều tác giả muốn diễn bày.
Ngoài ra, có những trích dẫn về kinh điển đạo Phật, về triết lý của nhiều triết gia, kể cả những công trình về khoa học, về vũ trụ, cũng được nêu lên minh chứng cho điều tác giả diễn luận. Vì thế, không cần thiết phải mượn thêm những kiến thức rườm rà để làm dáng cho bài viết giới thiệu khái quát về tác phẩm này, vì tự nó đã thừa hay ho lý thú; hay nói cách khác, là một bức tranh không còn chấm phá thêm đường nét hoặc màu sắc nào nữa.
Những câu hỏi căn bản mang tính triết lý như nguồn gốc vũ trụ, nguồn gốc con người, từng một thời thuộc lãnh vực của triết học. Ngày nay thuộc về mảnh đất của các nhà khoa học thực nghiệm. Sau khi khoa học lượng tử Quantum xuất hiện ngày càng trở nên một “công án” thú vị đối với khoa học, Stephen Hawking dựa trên thuyết này, nói rằng, “chúng ta tạo nên lịch sử bằng cách quan sát nó, chứ không phải lịch sử tạo nên chúng ta.” Ông còn giải thích thêm, “chính chúng ta là sản phẩm của những dao động lượng tử trong giai đoạn sơ khai của vũ trụ.” Điều này còn mang ý nghĩa đặt câu hỏi về “thực tại loài người” nếu không muốn nói tất cả sinh vật. Nghi vấn này cho Hawking đưa ra một lý thuyết “mô hình độc lập,” muốn nói rằng “thực tại” như là kết quả khả thể tốt nhất mà chúng ta có thể hy vọng tìm được.”Và trong lời mở đầu, Hawking kết luận rằng, “Triết học đã không theo kịp với khoa học tân tiến, các khoa học gia đã ttrở thành những người cầm đuốc khám phá trong tiến trình đi tìm kiến thức.
Tham khảo sách tại đây
3. Ý hệ
Ý hệ một cuốn sách triết học hay của Giáo sư Hawke thực sự là một tác phẩm có kiến giải sâu sắc về những vấn đề ý hệ, nó thuộc về sự phê phán ý hệ và xã hội học về tri thức. Cuốn sách này có thể hữu ích và đáng đọc với các chuyên gia và sinh viên quan tâm đến chủ đề này. Độc giả có thể đọc sách này với hai mục đích cùng lúc: nhìn lại lịch sử thuần túy của ý hệ (từ kinh Cựu Ước cho đến Slavoj Žižek) tại những điểm đáng chú ý của nó và đi xa hơn vào khía cạnh phê phán ý hệ. Bên cạnh đó, chúng ta cũng học được phương pháp trình bày của tác giả theo một cách nào đó, học được cách lắp ghép các mảnh rời lại với nhau, phân tích và sắp xếp chúng theo trật tự, hoặc lấy một số chi tiết làm những ví dụ điển hình để minh họa cho vấn đề.
Thông qua sáu chương bàn về sáu thời kỳ, chủ đề cơ bản và trường phái tư tưởng khác nhau, tác giả đã tiến hành nghiên cứu những khái niệm về ý hệ và dần dần chứng tỏ chúng là ý thức sai lầm thông qua nguồn tài liệu đa dạng được thu thập và không chỉ giới hạn ở những tư tưởng của các triết gia lớn mà còn mở rộng đến các tác phẩm văn học, điện ảnh, tâm lý học, nhân học, vân vân. Xử lý nguồn tài liệu đồ sộ đến vậy, Ý hệ nhắm đến trình bày sự mở rộng từng bước một của ý hệ để đạt đến hình thức cao nhất của nó, cũng là cấp độ quyền lực cao nhất của nền kinh tế tư bản đương thời trong mối quan hệ tương quan với ký hiệu học hậu hiện đại với tư cách là tư tưởng ý hệ của nó.
Tham khảo sách tại đây
4. Các Cơ Sở Của Số Học
Các cơ sở của số học là cuốn sách đầu tiên từ Thư Hiên Dịch Trường, nơi thai nghén sách vở Triết học tầm cao tới độc giả tầm cao. Ngay cả cuốn đầu tiên này cũng đầy chông gai cho bạn đọc.
Các cơ sở của số học được coi là cuốn sách triết học kinh điển của Gottlob Frege. Cuốn sách đại diện cho cuộc thảo luận triết học đầu tiên về khái niệm số trong nền văn minh phương Tây. Nó ảnh hưởng sâu sắc đến những phát triển trong triết học toán học và bản thể học nói chung. Mối quan tâm chính của Frege là triết học toán học, và tác phẩm Các cơ sở của số học chính là một kiệt tác của ông trong lĩnh vực này. Frege bênh vực cho chủ nghĩa duy tâm của Platon, phản đối chủ nghĩa hình thức và chủ nghĩa duy tâm lí trong triết học toán học. Mục tiêu của ông là dựa trên các tiên đề logic để suy ra tất cả các định luật toán học. Nói cách khác, theo Frege, các định luật toán học đều bắt nguồn từ các quy luật logic. Các quy luật logic hoàn toàn khách quan, còn các hiện tượng tâm lí hoàn toàn chủ quan nên chúng không thể là nền tảng cho toán học được
Frege không đơn thuần là một nhà toán học khi ông đặt ra một câu hỏi theo truyền thống triết học Kant: các chân lý số học là tiên nghiệm hay hậu nghiệm? Chúng là những phán đoán phân tích hay tổng hợp? Lưu ý Frege đang sử dụng các thuật ngữ triết học của Kant, nhưng ông không đồng ý với quan điểm của Kant khi Kant cho rằng các mệnh đề toán học là các mệnh đề tổng hợp tiên nghiệm. Quan điểm của Frege là: các chân lý số học, bắt nguồn từ các tiên đề logic, hoàn toàn mang tính tiên nghiệm và phân tích, nghĩa là chúng không lệ thuộc vào kinh nghiệm, thậm chí chúng còn là nền tảng của kinh nghiệm.
Tham khảo sách tại đây
5. Con Người Và Kỹ Thuật
Trên mọi địa hạt, sự biến chuyển mau lẹ không ngừng của kỹ thuật gây ảnh hưởng – tức tốc và trực tiếp không nhiều thì ít – đối với mọi sự kiện, với mọi cá nhân; đối với con người thị thành bận rộn lăng xăng của các đô thị khổng lồ trên khắp năm châu cũng như con người “man dã lạc hậu” nhất trong các khu rừng gần như hoang vu của miền Amazone, trên các sa mạc Australia, trên các hòn đảo không còn tươi sáng và trở thành đục ngầu của miền Thái Bình Dương, con người từ rày trở đi là người láng giềng ở ngay bên họ. Tác dụng của ảnh hưởng này còn được thấy trên mọi bình diện, tại các ngóc ngách sâu thẳm của mọi lĩnh vực sinh hoạt và hoạt động của con người, công khai in dấu – không bằng cách này thì bằng cách khác – lên từng chi tiết của đời sống hàng ngày cũng như của nề nếp đạo đức, luân lý và tôn giáo họ; lên các phương diện không kể xiết của đời sống gia đình, nghề nghiệp, xã hội, v.v… cũng như các hang sâu vực thẳm của đời sống tâm tình và trí tuệ của họ; lên các thức ăn cũng như triết lý của họ; lên các dục vọng cũng như các tham vọng, hy vọng và tuyệt vọng của họ.
Dù muốn dù không – kỹ thuật và dân số từ nay trở đi đối với chúng ta là những yếu tố cũng thường hằng, cũng trọng yếu, cũng sinh tử như toàn thể các điều kiện thiên nhiên căn bản, như không khí, như mặt trời. Ảnh hưởng của chúng vang dội khắp hoàn vũ, áp lực nặng nề của chúng tác động khắp nơi, tác động đều đều, không ngưng, không nghỉ.
Tham khảo sách tại đây
6. Triết học Kant
Nếu không hiểu Kant, bạn sẽ không thể hiểu thấu đáo Hegel, Marx, Heidegger và Lesvi- Strauss” chính Michel Foucault đã thẳng thắn nhận định như thế: Kant làm cho con người tỉnh giấc mơ tiên, biết mình là người chứ không phải là thần thánh, biết mình là hữu thể hữu hạn chứ không phải là hiện thể tuyệt đối. Chính Kant đã khai mạc khoa Nhân học khi đưa ra 4 câu hỏi với câu thứ bốn là “Con người là gì?”. Cho nên Foucault viết: ”Khoa Nhân – học làm nên căn bản sâu xa của tư tưởng triết học từ Kant đến chúng ta ngày nay”. Tại sao dám quyết như thế? “Khoa Phê bình của Kant đã mở cửa vào kỷ nguyên mới của chúng ta: khoa này không tìm hiểu tư tưởng ta từ hình thức đơn sơ đến những hình thức phức tạp trong cái chuyển biến vô biên, nhưng đã bắt đầu bằng việc ghi rõ những giới hạn của tri thức. Đây là hiện tượng xảy ra lần đầu tiên trong văn học Âu châu: tri thức được rút ra khỏi thế giới của biểu tượng: như vậy khoa Phê bình đã làm nổi bật phạm vi của khoa siêu hình học mà trước đó triết học của thế kỷ 18 vẫn thâu gọn trong lĩnh vực của biểu tượng. Đồng thời từ đó đã phát sinh ra một khoa siêu hình học khác, với nhiệm vụ tìm hiểu về căn nguyên và nguồn gốc của biểu tượng: nó khai sinh ra những triết học về sự Sống, về Ý chí và Ngôn ngữ mà thế kỷ 19 đã khai phá theo luống cày của thuyết Phê bình. Đúng thế, Kant là triết gia đầu tiên đã không chịu dừng lại nơi những ý tưởng, nhưng đã nhất quyết tìm ra những điều kiện phát sinh ý tưởng; ông đã không chịu thỏa mãn về sự kiện, nhưng nghĩ rằng triết lý phải tìm ra nguồn gốc siêu nghiệm của sự kiện và khả năng của chúng.
Tham khảo sách tại đây
6. Đấu thuyết Dostoevsky và Kant
“Đây không phải là một nghiên cứu phê bình văn học Triết học – Lịch sử, mà nó được viết dưới dạng những suy tưởng của người đọc về mối liên hệ giữa tiểu thuyết của Dostoevsky với các nguyên lý nền tảng trong học thuyết của Kant về những nghịch lý – cái được cho là mâu thuẫn không thể hòa giải của lý tính thuần túy. Theo Kant, mặc dù những mâu thuẫn đó về mặt vũ trụ học là không thể dung hòa được, nhưng dường như Dostoevsky vén được lớp màn ra và nhìn thấy dưới đó là một tầng ý nghĩa đạo đức sâu sắc hơn mà như thể Kant đã che giấu nó.
Tiểu thuyết của Dostoevsky chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu sắc. Trong “Đấu thuyết Dostoevsky và Kant”, nó không chỉ được làm sáng tỏ trình tình tiết diễn biến câu chuyện (bởi độc giả), mà còn trong ý đồ sâu kín (của tác giả), nghĩa là, trong ngụ ý sâu xa của tác phẩm. Nó được tiết lộ cùng lúc như một cuộc bút triết giữa văn hào Dostoevsky và triết gia Immanuel Kant, như một cuộc đấu tay đôi liên tục giữa các luận điểm về những nghịch lý của Kant được Dostoevsky nhân cách hóa trong cuốn tiểu thuyết, được gọi là “chính đề” và “phản đề.
Và thậm chí ngay cả khi quan điểm của Dostoevsky và Kant dường như trùng khớp, cuộc đọ sức toàn diện không những không dừng lại, mà còn bùng lên ngọn lửa mới, vì Dostoevsky khẳng định rằng trong cuộc sống “mọi mâu thuẫn cùng tồn tại bên nhau”, không bao giờ mất đi tính gay cấn của nó.
Tham khảo sách tại đây
7. Logic của sự khám phá khoa học-Karl Popper
Karl Popper (1902-1994), triết gia sinh tại Vienna, là một trong những nhà tư tưởng có tầm ảnh hưởng và gây tranh cãi nhất của thế kỷ XX.
Logic của sự khám phá khoa học của ông là một tác phẩm quan trọng, dành cho những người quan tâm đến triết học và cả những người quan tâm đến khoa học thuần túy. Trong cuốn sách này, Popper đưa ra một hệ thống triết lý và phân tích để mô tả bản chất triết học của quá trình nghiên cứu và khám phá khoa học. Cuốn sách này trình bày thành công quan điểm của Popper về khoa học, và các giải pháp mang tính nền tảng của ông dành cho lý thuyết về tri thức: sự phân định ranh giới giữa khoa học và giả khoa học, và vai trò của phép quy nạp trong sự gia tăng của tri thức khoa học. Popper đã nhận ra rằng các lý thuyết khoa học là kết quả của trí tưởng tượng đầy sáng tạo, và rằng sự gia tăng của tri thức khoa học dựa trên luận thuyết về tính có thể chứng minh là sai: rằng chỉ có những lý thuyết mà có thể kiểm nghiệm được và có thể chứng minh là sai được bởi quan sát và thí nghiệm thì mới được mở ra cho sự đánh giá khoa học. Những tư tưởng đầy tính kích thích này đã tác động lớn và đầy ý nghĩa tới các cộng đồng khoa học và triết học, và đóng vai trò trung tâm cho sự phát triển của triết học về khoa học
Tham khảo sách tại đây
Cảm ơn bạn đã dành thời gian đọc hết bài viết, Thư Hiên Dịch Trường chúc bạn có thể tìm được cho mình những cuốn sách phù hợp. Ngoài ra, Thư Hiên Dịch Trường cũng còn là một thư viện, sở hữu hơn 5,000 tựa sách tiếng Việt, 3,600 tựa sách tiếng Anh và hơn 1,000 tựa sách ngôn ngữ khác, đa dạng thể loại từ sách triết học, văn học, tôn giáo cho đến ngôn ngữ… Thư Hiên rất vui được đón tiếp bạn!
Tham khảo: sách triết học hay
Thông tin liên hệ
Hotline: 0938336918
Fanpage: Thư Hiên Dịch Trường